Tết Xuân vẫn còn đó Hồn Xuân mất đâu rồi!


 
Tết Xuân vẫn còn đó
Hồn Xuân mất đâu rồi!
Phạm Hồng-Lam
Xuân là thời điểm sự sống hồi sinh.
Ở Trung Âu, cũng như ở Việt Nam, Tết là ngày mở đầu một năm mới, nhưng tiết xuân thực sự chưa đến. Tết chỉ là cánh én báo hiệu sự sống của Xuân đang về. Phải chờ hai tháng sau, sự sống mới phát tiết bừng dậy. Bước vào tháng ba dương lịch, ta có cảm tưởng như nghe được mạch sống chuyển động trong từng sớ thân cây cỏ. Một sáng một chiều, dưới đất bỗng vươn lên những đám Xuyên Tuyết đủ màu. Những chồi búp trên các cành đào, mận, lê, táo hôm qua mới nhỏ bằng hạt gạo, hôm nay đã căng lên bằng đầu đũa. Và chỉ vài ngày sau, tất cả đua nhau rộ nở. Những con đường đỏ au màu đào. Những mảnh vười trắng phau màu táo hay thoáng hồng màu lê, mận. 
     Tiết xuân ở Việt Nam cũng muộn như vậy. Trên cao nguyên, vào những ngày Tết đầu năm, cây cỏ hãy còn xơ xác, đất khô nứt, trời se lạnh, chỉ thoáng những cơn mưa phùn không ướt đất. Phải đợi đến tháng ba, tháng tư, những trận mưa đầu mùa trở về, cây cối mới xanh lá, đâm chồi nẩy lộc hồi sinh, mùa trồng cấy của nhà nông bắt đầu.
Sự sống hồi sinh không chỉ nơi cây cỏ. Muông chim cũng bắt đầu líu lo xây tổ, ủ ấp con. Vì thế ở nước Đức, kể từ tháng ba cho hết hè, luật không cho phép đốn cây, chặt cành, vì sợ ảnh hưởng tới sự sống của muông chim.
Mà không chỉ nơi cây cỏ muông chim. Sự sống bừng dậy cả nơi con người với những lễ lạc mùa Xuân, như lễ hội Hoá Trang (Fasching) chẳng hạn. Các nhà nghiên cứu người Pháp cho hay, trên địa bàn các tộc Việt xưa bao gồm các phần đất nam Trung Hoa và Việt Nam hiện nay, có một lễ hội mùa Xuân rất đặc thù. Vào những ngày đầu Xuân, trái gái tụ nhau về vui chơi, gặp gỡ làm quen, hát xướng đua tài. Và sau những cuộc vui chơi đó, họ từng cặp đưa nhau vào những cánh rừng bên, sống thân mật với nhau suốt đêm, để rồi hôm sau chia tay với lời hẹn thề: Trong những ngày tháng tới, nếu người con gái mang thai, thì anh chị lấy nhau. Mầm sống nẩy nở trong lòng người mẹ tương lai là dấu chỉ của số Trời định cho hai anh chị. Còn hình ảnh nào đẹp hơn cho í nghĩa mùa Xuân!
Thời gian ngưng đọng và sang trang mới
Đề cập tới mùa Xuân là phải bàn tới Tết. Như đã nói, Tết là cánh én báo hiệu mùa Xuân. Nó là cánh cửa mở ra một giai đoạn thời gian mới. Mở ra một sự sống mới. Văn hoá truyền thống Việt Nam có một quan niệm khá lạ về thời gian. Cha ông chúng ta cho rằng, thời gian không phải là một đại lượng diễn tiến không ngừng nghỉ. Trái lại, họ tin thời gian có thể ngưng đọng và lại bắt đầu một trang mới. Tết là một thí dụ.
Từ ngày 23 cho tới 31 tháng chạp Táo Quân bỏ cõi trần, về Trời báo cáo chuyện nhân gian. Trong bảy ngày này người ta tin thời gian hoàn toàn ngưng đọng. Mọi chuyện trở nên thiêng (kiêng). Đất kiêng không được khai phá. Nhà kiêng không được quét. Bếp kiêng không được nhúm. Chờ cho tới lúc Táo Quân trở lại trần gian, mở đầu lại một thời gian mới, thì mọi chuyện mới lại được phép. Vua xắn quần xuống ruộng lật luống cày đầu tiên. Tiên chỉ mở lại sinh hoạt cộng đồng làng xã. Khói bếp lại bốc lên từ những túp lều tranh.
Khoảnh khắc „giao thừa“ là thời điểm quan trọng. Đó là giây phút chuyển giao thời gian cũ và mới, chuyển giao sự sống cũ và mới: „tống cựu nghinh tân“.
Cũng vì quan niệm thời gian ngưng đọng và bắt đầu lại mới trên đây mà, sau thời khắc giao thừa, mỗi người Việt bỗng chốc lớn lên một tuổi. Bất luận sinh ra vào ngày nào tháng nào trong năm, hễ bước qua giao thừa là chúng ta lớn thêm một tuổi. Người Việt không ai bảo, thằng Hạ nhà tôi được mười tuổi rưỡi, con Thu nhà tôi vừa đúng năm tuổi bảy tháng, hay ông cụ Đông nhà cháu Trời thương được hơn tám mươi tuổi cả! Không có thứ tuổi lẻ như thế. Trước đây, nói như vậy là làm trò cười cho thiên hạ.
Chuyển trang thời gian hay đổi mới sự sống là nội dung quan trọng nhất của biến cố Tết. Vì thế, lời đầu tiên và quan trọng nhất khi chúc nhau trong dịp Tết là „chúc tuổi / mừng tuổi“. Con cháu mừng cha mẹ, ông bà được thêm tuổi thọ. Ông bà, cha mẹ chúc con cháu được lớn thêm một tuổi. Học trò chúc tuổi thầy cô. Thầy cô mừng tuổi học trò. Tết dĩ nhiên cũng là dịp nghỉ ngơi, ăn uống và vui chơi. Nhưng cái Hồn của Tết vẫn là mừng chúc nhau một tuổi mới, một bắt đầu thời gian mới, một sự sống mới.
Vì thế, đối với người Việt, ngày sinh không quan trọng. Điểm này khác hẳn với văn hoá phương Tây. Tây phương coi biến cố sanh đẻ là mốc hiện hữu quyết định của một đời người. Một cá nhân chỉ được công nhận có mặt trên đời từ lúc sinh ra, còn thời gian thai phôi trước đó coi như không kể. Lễ mừng sinh nhật, do đó, là biến cố rất quan trọng đối với họ. Còn trái lại đối với chúng ta, ngày sinh có thể nói được chỉ là một biến cố xã hội. Bắt đầu từ đây cá nhân tham dự vào xã hội và bước vào chia sẻ những trách nhiệm chung trong xã hội. Còn về mặt sự sống, chẳng có gì thay đổi: Ngày sinh cũng chỉ là một biến cố trong đời của một sự sống đã bắt đầu và và đang diễn tiến. Giai đoạn thai nhi do đó cũng thuộc vào quỹ thời gian của đời người. Đây cũng thêm một lí do biện minh cho tục chúc / mừng tuổi ngày đầu năm. Chín tháng, theo quan niệm của người Việt, đã là một năm. Do đó, dù đứa trẻ sinh ra vào ngày 31 tháng chạp, thì qua một đêm giao thừa, nó cũng đã được một năm tuổi. Cũng vì thế, ông bà ta bảo để tang ba năm, nhưng kì thực chỉ có 27 tháng.
Trong lúc người phương Tây và nhiều tôn giáo thế giới đang loay hoay tranh cãi nhau về một thời điểm bắt đầu của sự sống để biện hộ cho việc hợp pháp hoá phá thai của họ, thì truyền thống văn hoá của chúng ta đã giải quyết xong từ lâu vấn nạn này rồi: Sự sống đã bắt đầu khởi đi từ giây phút đầu trong lòng mẹ, chứ chẳng phải chỉ bắt đầu sau khi Phôi trở thành Thai hay sau khi Thai được thổi Hồn vào, như quan điểm nơi một vài tôn giáo!
Và thay vì sinh nhật, chúng ta coi ngày chết mới quan trọng. Thay vì mừng sinh nhật như người Âu Mĩ, người Việt chúng ta mừng ngày tử với lễ Giỗ. Sinh chỉ là một trong những biến cố trong dòng sự sống, nên không có gì đáng quan tâm cho lắm. Còn chết là điểm chuyển giao hai sự sống quyết định: Giã từ sự sống trần gian để bước vào sự sống của tổ tiên. Sinh quý tử quy. Sống là tạm, chết là trở về. Về đâu? Về với thế giới linh thiêng của Tiên Tổ. Thế giới Tổ Tiên này cũng rất gần với thế giới các Thánh thông công của đạo Công giáo. Một biến cố sang trang như vậy thì ngày chết mới là ngày đáng mừng đáng nhớ, mừng và nhớ dài dài mỗi năm qua đôi ba thế hệ, chứ không ngắn ngủi như mừng sinh nhật trong một đời người.
Hồn Xuân là đó. Nó nằm trong thời khắc giao thừa, nơi phong tục mừng tuổi ngày Tết, nơi í nghĩa ngày chết.
Tiếng kêu cứu của Hồn văn hoá
Thời gian qua, báo chí Việt đề cập nhiều về thảm trạng phá, giết thai nhi ở Việt Nam. Nhiều người đây đó cũng đã lên tiếng báo động, Việt Nam là nơi vô địch về tỉ lệ phá thai! Vì đâu nên nỗi? Phải chăng vì thuyết mác-xít, tự bản chất, phủ nhận mọi giá trị nhân phẩm của cá nhân? Cộng sản vẫn lớn tiếng hô hoán nào là giải phóng con người, nào là bẻ gẫy xiềng xích nô lệ, nhưng thực tế, „con người“ mà họ nói tới là tập hợp của chủng người chung chung, chứ không phải từng cá nhân cụ thể. Họ coi con người chỉ là một „bộ phận“ trong một guồng máy sản xuất mà thôi. Do đó, thay vì nói: có nhiều người trong đảng mình tham ô, thì ông Nguyễn Phú Trọng lớn tiếng: Một „bộ phận“ không nhỏ trong đảng tham ô! Đây không đơn giản chỉ là một kiểu nói quen miệng của người cộng sản. Nó phản ảnh nội dung thực tế của một í thức hệ. Con người cá nhân không có chỗ đứng trong toà nhà í hệ cộng sản; nó sẵn sàng bị hi sinh (dĩ nhiên trừ các cá nhân lãnh đạo của đảng) cho cái gọi là quyền lợi giai cấp, quyền lợi „nhân dân“, quyền lợi chủ nghĩa! Vì thế mà các đảng cộng sản mọi nơi mọi thời dễ dàng giết người không chùn tay. Stalin, Mao tiêu diệt hàng chục triệu nông dân đói khổ. Pôn-pốt giết hàng triệu thị dân có học. Cha con nhà Kim ở Bắc Hàn đã bắn và bỏ đói được bao nhiêu dân „phản động“? Hồ và đàn em doạ sẵn sàng đốt luôn cả dãy Trường Sơn để „ta đánh là đánh cho Tàu cho Nga“.
Đã là sản phẩm của một chủ nghĩa coi thường nhân phẩm như thế, thì chuyện hô hào hoặc thả lỏng việc giết thai nhi trong các chế độ cộng sản là chuyện chẳng lạ. Trong đầu óc của một người cộng sản chân chính không thể có í thức về sự linh thiêng của Hồn văn hoá, nên việc họ chủ trương huỷ diệt truyền thống nhân văn của dân tộc là điều cũng không lạ. Năm 1987 nhà văn Võ Văn Trực đã phải cất lên „Tiếng kêu cứu của một vùng văn hoá“ để điếu tang cho quê làng thân yêu của mình, khi lãnh đạo cộng sản đua nhau phá tan mọi vết tích lịch sử và nếp sống nhân văn của một ngôi làng đã có một lịch sử dày từ bảy, tám trăm năm nay. Không chỉ có làng quê của Võ Văn Trực. Mà hàng ngàn hàng vạn làng lịch sử văn hoá trên đất nước đã bị xoá trắng từ 70 năm qua, kể từ khi có mặt của đảng cộng sản trên đất nước này.
Nhưng lạ và đau là ngay đại đa số trong chúng ta, không những trong nước mà cả ở hải ngoại, cũng đã nhiễm cái văn hoá thực dụng của Tây phương (Cộng sản cũng là một sản phẩm của phương Tây) mất rồi. Còn đâu, đặc biệt ở hải ngoại, truyền thống mừng tuổi mỗi độ Tết đến? Còn đâu cái í nghĩa cao đẹp của lễ Giỗ nơi đồng bào mình? Ngay lớp thị dân trung lưu trong nước cũng còn mấy ai í thức được nét đẹp và hệ quả sâu xa của phong tục giao thừa và ngày Tết? Thay vào đó, giờ đây người ta đua nhau tổ chức mừng sinh nhật, đại gia đỏ thì kéo nhau sang Thái-lan mua vui trác táng, lớp ít tiền hơn thì với những trận nhậu thâu canh. Ngay cả những nhà lãnh đạo tinh thần cũng siêng năng tổ chức sinh nhật, với hậu í gì thì chẳng rõ.
Đối với người Âu Mĩ, Tết chỉ là ngày khởi đầu của một năm mới. Người ta mừng với nhau bằng một bữa ăn hay cùng nhau đi coi hát và chúc nhau được may mắn trong năm mới (Guten Rutsch ins Neujahr!). Chỉ có thế thôi. Mình cũng chỉ cần mừng như họ là đủ rồi chăng?
Nếu Xuân không còn Hồn, Tết hết Hồn, thì việc mừng Xuân, mừng Tết của chúng ta còn lại gì?
Augsburg, 18.12.2013
Phạm Hồng Lam

Phần I - Tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu trong „Việt Nam Quốc Dân Đảng Chương Trình“ - Cuộc hành trình tư tưởng đầy gian lao


Tài liệu Sử đặc biệt


Tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu trong
Việt Nam Quốc Dân Đảng Chương Trình


Phần I
Cuộc hành trình tư tưởng đầy gian lao


Trong Tự Phán [1] Phan Bội Châu (PBC) cho hay, sau khi ra khỏi tù ở Trung-hoa (1913-1917), ông cải tổ Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng, và đã khởi thảo ra „Việt Nam Quốc Dân Đảng chương trình (viết tắt CT)“ và „Việt Nam Quốc Dân Đảng đảng cương (ĐC)“ để làm căn bản cho đảng mới. Ông cũng cho biết thêm: Ba tháng sau khi soạn xong tài liệu (cuối 1924), Nguyễn Ái Quốc từ Mạc-tư-khoa tới tìm gặp ông ở Quảng Đông và nhiều lần yêu cầu ông sửa đổi nội dung [2]. Phan đã không sửa và giao hai bản văn cho Hồ Tùng Mậu tìm cách mang về nước. Và ông cho hay: chuyện Mậu có đưa được các tài liệu đó về trong nước không, và bản chương trình sau đó có bị sửa đổi thế nào không, ông không biết [3].

Bản ĐC trình bày tổ chức nội bộ đảng, „dựa theo khuôn mẫu của Quốc Dân Đảng Trung-hoa có châm chước thêm bớt cho đúng với tình hình nước ta[4], nội dung được sơ tóm trong cuốn Tự Phán. Về mặt tư tưởng, tài liệu này không có gì đáng nói.
Còn bản CT có nội dung ra sao mà Nguyễn Ái Quốc phải nhiều lần yêu cầu sửa đổi?
Có phải bản văn này đã là nguyên cớ kết thúc cuộc đời cách mạng của PBC không?
Và có phải cũng vì sự kiện này mà Nguyễn Ái Quốc đã vội vàng cùng với hai người nữa thành lập ở Quảng Châu ngày 03.01.1925 một Quốc Dân Đảng Đông Dương  [5] riêng?
 Cho tới nay, nhiều tài liệu nói rằng, Nguyễn Ái Quốc đã lập mưu bán đứng PBC cho Pháp. Nhưng tại sao? Các lí do do các tài liệu đó đưa ra vẫn chưa đủ thuyết phục. Và Hồ Tùng Mậu (lúc này vừa là người của PBC, vừa nhận lệnh của Nguyễn Ái Quốc lại vừa hoạt động cho Pháp) có mang nó về nước không, hay đã trao cho ai? Nhiều câu hỏi chưa có được câu trả lời rõ ràng.
CT là tài liệu đặc biệt quan trọng. Nó phản ảnh một chuyển biến tư tưởng mới của họ Phan. Nhưng lạ là cho tới nay, chưa một học giả Việt nào đề cập tới bản văn đó. Cũng chưa thấy nó xuất hiện trong bất cứ một tác phẩm việt ngữ nào [6]. Tại sao?

Tôi đã có được nội dung của bản CT.

Nhưng trước khi bàn sâu vào nó, hãy tìm hiểu sơ qua bối cảnh tổng quát.


Hành trình tư tưởng của Phan Bội Châu
phản ảnh qua các tổ chức chính trị

Họ Phan là con người đa diện. Đa diện về tư tưởng, phản ảnh qua vô số văn thơ ông để lại. Và đa diện về sự nghiệp chính trị, xuyên qua nhiều tổ chức chính trị mà ông đã thành lập.
Muốn biết diễn tiến tư tưởng nơi ông, không gì bằng nghiên cứu khối văn thơ của ông. Song cũng có một lối khác, đơn giản hơn, là đi theo những chặng đường lập Hội, lập Đảng của ông. Cả cuộc đời nhà cách mạng này gắn liền với các tổ chức chính trị. Và các tổ chức này lại phản ảnh những bước ngoặt tư duy lớn của ông.
Năm 1903, sau khi những dự tính bạo động theo tinh thần Văn Thân, Cần Vương của thời thanh niên theo nhau đổ vỡ, họ Phan quyết định rong ruổi khắp Trung, Nam, Bắc tìm đồng chí lập một hội kín để làm nền móng mới cho cuộc đấu tranh cứu nước tiếp tục. Đó là Duy Tân Hội (1904), với chủ trương bạo động, bảo hoàng cầu viện ngoại quốc.
Công việc đang tiến hành thì một biến cố lớn làm rung chuyển Á châu: Nhật thắng Nga ở cửa biển Arthur (1905). Phan quyết định sang Nhật tìm nguồn trợ giúp cho Hội và luôn thể tìm hiểu nguyên nhân lẫn thực thể sức mạnh của nước lân bang đồng văn đồng chủng này.
Tại đây, qua lời khuyên của nhà cải cách trung-hoa tị nạn Lương Khải Siêu, rằng không nên dựa sức người mà quan trọng nhất là phải chuẩn bị sức mình bằng cách đầu tư vào việc đào luyện nhân tài, Phan liền dấy lên Phong Trào Đông Du (1905 – 1908) kêu gọi thanh niên sang Nhật du học. Chương trình đông du có âm vang lớn, vì nó được hỗ trợ đắc lực bởi Phong Trào Duy Tân (1906 - 1908) do Phan Chu Trinh và các đồng chí phát động trong nước. Tư tưởng cầu viện lúc ra đi dần dần nhường chỗ cho tư tưởng tự cường. Đó là thay đổi tư duy đầu tiên của Phan.
Trong thời gian này, Phan viết Khuyến Quốc Dân Du Học, Việt Nam Vong Quốc Sử, Hải Ngoại Huyết Thư, Tân Việt Nam, Ai Việt Điểu Diên, Việt Nam Quốc Sử Khảo, Hoà Lệ Công Ngôn v.v. Sách Tân Việt Nam (1907) vẽ lên hình ảnh của một Việt Nam sau khi duy tân: không còn bóng dáng thực dân; kinh tế, xã hội, giáo dục cộng đồng phát triển; nền dân chủ chính trị thành lập. VN Quốc Sử Khảo mở đầu bằng một định nghĩa công pháp quốc tế về Quốc Gia: Ba yếu tố hình thành một quốc gia là Dân, Đất và Chính quyền. Trong đó, theo ông, Dân quan trọng hơn cả. Mà công dân của một quốc gia thì phải có quyền. Tư tưởng Dân chủ Dân quyền, như vậy, đã nẩy sinh trong Phan. Có thể nói, bắt đầu từ đây, một thứ chủ nghĩa „Duy Dân“ của Phan Bội Châu ra đời. Cổ xuý Dân chủ, nhưng chưa có nghĩa là ông chối từ chính thể quân chủ, cho dù việc chấp nhận chính thể này, đối với ông, chỉ là phương tiện hơn là cứu cánh đấu tranh [7].
Tháng 7.1908, lo sợ trước ảnh hưởng của Phong Trào Duy Tân và đặc biệt các cuộc biểu tình xin giảm xâu thuế lây lan, Pháp tìm mọi cách chặt đầu cầu cách mạng ở hải ngoại. Và họ đã kí được với Nhật hiệp ước trao đổi quyền lợi và yêu cầu Nhật trục xuất sinh viên và các nhà cách mạng việt nam. Như chim vỡ tổ, một số sinh viên rút sang Trung-hoa, một số theo Phan sang Thái-lan canh tác đợi thời.
Năm 1911, biến cố rúng động thứ hai: Cách mạng dân chủ ở Trung-hoa với Tôn Dật Tiên thành công. Từ rừng núi Thái nghe tin, Phan trở lại Trung-hoa, triệu tập đại biểu về Canton hội nghị biểu quyết bỏ chủ trương Bảo hoàng và đổi Duy Tân Hội thành Quang Phục Hội (1912), cổ xuý tinh thần tự lực tự cường, cộng hoàdân chủ. Hai lí do khiến ông bỏ Bảo hoàng: Lí tưởng Dân chủ của JJ. Rousseau, Montesquieu đã có dịp thấm trong Phan, và vì nhu cầu cần sự giúp đỡ của họ Tôn. Trước đây, năm 1908, đã một lần Phan tới với Tôn để tìm sự hỗ trợ, nhưng Tôn không thiết tha bàn chuyện, vì thấy Duy Tân Hội theo đuổi Quân chủ. Lần này, sau khi chấp nhận cổ xuý chính thể cọng hoà, Phan lại tìm tới Tôn, nhưng Đồng Minh Hội của Tôn lúc này vẫn không giúp gì được cho cách mạng việt.
Tình thế bế tắc khiến Phan quyết liệt lao vào bạo động. Ở hải ngoại lẫn quốc nội Quang Phục Hội dấy lên phong trào ám sát, cấp khích bạo động: Ám sát tri huyện Thái Bình (1913), ném bom khách sạn Hà Nội, bạo động ở các tỉnh phía bắc (1915), cùng vua Duy Tân âm mưu khởi nghĩa (1916), khởi nghĩa Thái Nguyên (1917)... Trong khi đó, chẳng may Phan bị tổng đốc tỉnh Quảng Đông là Long Tế Quang bắt bỏ ngục 4 năm dài (cuối 1913-17). Tưởng mình sẽ bị giết hoặc chết rục tù, ông viết Ngục Trung Thư để tuyệt mạng. Song, chưa kịp giải giao nạn nhân cho Pháp, thì Quang bị cách mạng trung-hoa dẹp. Phan thoát ngục.
Một năm sau khi ra ngục, lúc đang ngổn ngang với tình hình thế giới và đất nước và tinh thần còn giao động, hai đồng chí Lê Dư và Phan Bá Ngọc tìm tới. Ngọc tin tưởng vào đường lối cởi mở của toàn quyền Albert Sarraut và khuyên Phan nên lợi dụng cơ hội hợp tác. Phan nghe lời Ngọc, đồng thời nghĩ rằng có thể lợi dụng dịp này „tương kế tựu kế“ để mở rộng vòng vây của mình, nên đã viết Pháp Việt Đề Huề Chính Kiến Thư [8] (1918) rồi bảo Ngọc mang về trao cho Sarraut. Trong thư, Phan cho hay, với kinh nghiệm của thế chiến I vừa qua, ông tiên đoán sẽ xẩy ra thế chiến II, lần này giữa Nhật và Tây phương; và nếu cuộc chiến xẩy ra, thì Pháp ở Đông dương sẽ không chống nổi và mất hết vào tay Nhật. Phan cũng công nhận rằng thực dân Pháp còn dễ thở hơn thực dân Nhật (kinh nghiệm tàn ác của Nhật ở Đài-loan và Đại-hàn). Và ông kêu gọi, ngay từ giờ Pháp nên bỏ chính sách thực dân đi mà cùng bắt tay đồng hành với nhân dân Việt Nam để chuẩn bị cho một tương lai chung cho cả hai nước. Vì bức thư đó, tháng 5.1919 Pháp cử người sang gặp Phan ở Hán-khẩu. Hồ sơ an ninh của Pháp cho hay, Néron đã thành công thuyết phục Phan thôi chống Pháp và đã đồng í cấp cho Phan mỗi tháng 100 đồng tiền hưu; và Pháp chỉ mất liên lạc với Phan sau khi Ngọc bị ám sát ở Hàng-châu năm 1922 [9]. Nhưng theo Phan, ông đã từ chối các điều kiện trên.
Trong Tự Phán (tr. 201) Phan viết, vì tập “Pháp Việt Đề Huề chính kiến thư” của ông mà 4 hay 5 tháng sau Ngọc quay ra làm tôi trung cho Pháp và đã bị cách mạng việt nam giết. Hồ sơ an ninh Pháp thì cho hay, Ngọc đã “trở về” (“retourné”) sau khi bị bắt năm 1917 cùng với Mai Lão Bạng ở Thượng-hải; và việc Ngọc tới mua chuộc Phan hợp tác là do âm mưu của thực dân, qua đó họ muốn giết Phan về mặt chính trị [10].
Thật ra không riêng gì Ngọc, rất nhiều trí thức Việt thời đó hớn hở đón chào Sarraut, vị toàn quyền trí thức đã định nghĩa chính sách mình như là “Bản tuyên ngôn nhân quyền được diễn dịch bởi thánh Vincent de Paul[11]. Sarraut xây bệnh viện, mở trường học, mở mang đường xá, cải tổ giáo dục, lập cao đẳng và hứa sẽ đưa ra một chính sách bảo hộ mới cho VN, sau khi thế chiến I chấm dứt. Ông nói tới “tự trị”, hứa hẹn “Các thuộc địa là những quốc gia đang hình thành[12]. Kết quả, ông này thu được 367 triệu quan của dân Nam cho chiến tranh và 130 ngàn thanh niên Việt đầu quân cho Pháp [13]. Sau chiến tranh (thế chiến I), lời hứa thành bánh vẽ.
Năm 1917, biến cố thứ ba ảnh hưởng tới dòng tư tưởng của Phan: “Cách mạng tháng 10” [14] Nga. Sau khi đọc được một cuốn sách Nhật ngữ nói về cuộc chính biến này, Phan bắt đầu say mê tìm hiểu lí thuyết cộng sản. Do tò mò, cuối năm 1920 ông tới đại học Bắc-kinh tìm gặp đại diện Nga để tìm hiểu thêm về chủ nghĩa, và nếu có thể, xin cho sinh viên du học. Người Nga cho biết nước họ sẵn sàng nhận du học sinh, nhưng sau khi học xong, phải về nước hoạt động và tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản. Nghe vậy, Phan rút lui. Không tin người Nga, nhưng Phan vẫn tìm cách nghiên cứu lí thuyết mới mẻ này.
Phấn chấn trước những thắng lợi của cách mạng trung-hoa (Tôn Dật Tiên) và đặc biệt của chính biến nga-sô (Lenin), đồng thời hi vọng vào những trợ giúp của những thế lực mới này, Phan cùng các đồng chí còn lại (trong Tâm Tâm Xã) quyết định khai tử Quang Phục Hội để thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng (1925). Cương lĩnh của Đảng - Việt Nam Quốc Dân Đảng Chương Trình – đã được Phan khởi thảo từ cuối 1924. Đây là một tổng hợp giữa Tam Dân chủ nghĩa, hay đúng hơn, giữa một thứ Duy Dân chủ nghĩa Cộng Sản chủ nghĩa.
Sau khi viết xong CT và giao cho Mậu bí mật mang về Việt Nam, Phan bị mật thám pháp bắt ở trên đất Trung-hoa và giải về giam lỏng tại Huế.
15 năm phần cuộc đời an trí còn lại (1925-40) ở Huế, Phan quay trở về nhiều hơn với chuyện giáo dục và những giá trị khổng -mạnh. Ông dịch Chu Dịch, viết Khổng Học Đăng, Nam Quốc Dân Tu Tri, Nữ Quốc Dân Tu Tri, Thuốc Hoàn Hồn, Xã Hội Chủ Nghĩa, Nhân Sinh Triết Học v.v.. Ông tự coi mình như đã chết về mặt chính trị, nên không đưa ra một tư tưởng chính trị mới mẻ nào nữa. Một số bài viết trong thời này chỉ là để quảng diễn những tư tưởng trước đây đã có. Ở Việt Nam, văn liệu của ông đã được sử gia Chương Thâu sưu tập và đã ấn hành được 10 tập với hơn 4800 trang, song hãy còn thiếu nhiều.
Tóm lại, về mặt tư tưởng, nhờ ra khỏi nước, tiếp xúc với tân thư, với kinh nghiệm Nhật-bản, với các chính trị gia nước ngoài mà chủ trương bạo động, bảo hoàng, tinh thần cầu viện nhường chỗ cho ưu tiên giáo dục quần chúng, cho tinh thần tự lực tự cường, cho dân chủ, dân quyền và sau này, qua âm vang biến cố tháng 10 ở Nga, tư tưởng xã hội có dịp triển nở.
Có thể tóm tắt nội dung chuyển biến tư tưởng của Phan Bội Châu qua biểu đồ sau:

Tổ chức
(năm thành lập)
Chủ trương
Phương pháp
Biến cố ảnh hưởng lên việc lập tổ chức
Duy Tân Hội
(1904)
- Đuổi Pháp
- Lập Quân chủ lập hiến
- Chủ yếu bạo động
- Dựa vào ngoại viện
Thất bại của Cần Vương và Văn Thân
Quang Phục Hội
(1912)
- Đuổi Pháp
- Lập Cộng hoà dân quốc
- Chủ yếu bạo động
- Cầu viện song song với tự lực
- Nhật thắng Nga 1905
- Cách mạng dân chủ Trung-hoa (1911)
Việt Nam Quốc Dân Đảng (1925)
- Đuổi Pháp, dẹp phong kiến
- Lập Cộng hoà dân chủ
- Giáo dục í thức người dân là chính
- Ôn hoà bao nhiêu có thể
- Bạo động khi bị bó buộc

- Biến cố tháng 10 ở Nga

(Kì tới: Nội dung Việt Nam Quốc Dân Đảng Chương Trình)







[1] Phan Bội Châu, Tự Phán. Hồi kí vận động cách mạng của cụ Phan Bội Châu. Nhân chủ học xã, USA 1987. Trang 217, 218.
[2] Phan Bội Châu, đã dẫn, trang 218
[3] Phan Bội Châu, đã dẫn, trang 218
[4] Phan Bội Châu, đã dẫn, trang 218
[5] Xem: http://www.vietinfo.eu/tu-lieu/nguyen-ai-quoc-va-viet-nam-quoc-dan-dang--ai-da-ban-dung-cuoc-khoi-nghia-yen-bai-cho-phap-.html
[6] Trong nước, nhà sử Chương Thâu đã xuất bản Phan Bội Châu Toàn Tập (gồm 10 tập, 4800 trang. Nhà xuất bàn Thuận Hoá. Huế 1990), nhưng cũng không thấy „Việt Nam Quốc Dân Đảng Chương Trình“ trong đó.
[7] Thật ra, từ 1907, qua tiếp xúc với các học giả Trung-hoa, tư tưởng Dân chủ đã lớn dậy trong ông, nhưng ông chưa muốn nói ra, vì sợ lòng người chưa thuận. Cuốn „Hoàng Phan Thái“ (1907) kết tội vua Tự Đức, đồng thời ca ngợi một „kẻ nghịch tặc“ đối với vua là một nhà „cách mạng khai sơn chi tổ“ là quả bong bóng đầu tiên ông thả ra để xem phản ứng, đồng thời dọn đường cho việc hoán chuyển tư tưởng từ quân chủ qua dân chủ. Xem Tự Phán, trang 108tt.
[8] Pháp Việt Đề Huề... viết năm 1918, chứ không phải như sử gia mác-xít Lê Thành Khôi viết trong sách của ông (3000 Jahre Vietnam. Muenchen 1969, tr. 349) là tài liệu đó được viết trong thời gian Phan bị quản chế ở Bến Ngự, Huế. Xem thêm bài „Phải thực hành chủ trương Pháp Việt đề huề“, trong Chương Thâu: Phan Bội Châu Toàn Tập, tập 4, trang 365.
Lại nữa, theo Di Cửu Niên Lai Sở Tri Chủ Nghĩa viết sau này, Phan cho biết trong ông đã manh nha lí tưởng  hoà bình, cộng tác, bỏ bạo động, mà ông gọi là „cách mạng văn minh“ kể từ năm 1912 rồi. Gandhi và các phong trào độc lập ở Ấn-độ, Phi-luật-tân, Algérie, Ả-rập... cũng đã ảnh hưởng lên chủ trương „thoả hiệp“ của ông.
[9] Xem Patrice Morlat, La Répression Coloniale au Vietnam (1908-40), Harmattan, Paris, 1990, trang 83.
[10] Xem Patrice Morlat, sđd, trang 38, 66, 83
[11] J.B Alberti, trích bởi Nguyễn Văn Phong, La societé vietnamienne de 1882 à 1902 d´ après les écrits des auteurs francais. Paris 1971, tr. 315.
[12] Xem Patrice Morlat, sđd, trang 71
[13] J.B Alberti, như trên.
[14] Nhà văn Nga Alexander Solschenizyn khẳng định “cách mạng tháng 10” là một huyền thoại do đảng cộng sản Nga vẽ ra mà thôi. Đó không hơn không kém chỉ là một cuộc chính biến xẩy ra trong một ngày, do Leo Trotzki chủ động. Quan điểm của Solschenizyn cũng là quan điểm phổ biến hiện nay ở Nga. Xem cuộc phỏng vấn Solschenizyn “Mit Blut geschrieben”, đăng trong Der Spiegel, 30/2007.

Phần 2 - Hành Trình Tư Tưởng Của Nhà Cách Mạnh Phan Bội Châu - Nội dung Việt Nam Quốc Dân Đảng Chương Trình (CT)




Hành Trình Tư Tưởng
Của Nhà Cách Mạnh Phan Bội Châu

Phần 2
Nội dung Việt Nam Quốc Dân Đảng Chương Trình (CT)

Nội dung sau đây dịch từ tài liệu của Jörgen Unselt, Í Thức Hệ Quốc Gia Và Cộng Sản Trong Tác Phẩm Về Sau Của Phan Bội Châu [1867-1940] (Vietnam: Die Nationalistische und Marxistische Ideologie Im Spätwerk Von Phan Bội Châu [1867-1940]), Franz Steiner Verlag, Wiesbaden 1980.
Đây là một tài liệu ngoại ngữ hoạ hiếm, và có lẽ cũng là tài liệu duy nhất ở Đức, nghiên cứu tư tưởng và con người cách mạng Phan Bội Châu. Tác giả đã bỏ ra nhiều năm tìm kiếm tài liệu ở các thư khố ở Pháp và Việt Nam (Đà-lạt, Sài-gòn), tìm gặp phỏng vấn một số nhân vật liên quan, và đặc biệt đã ở lại Việt Nam 2 năm (1970-72) học tiếng hầu hoàn thành luận án tiến sĩ (1978, đại học Heidelberg, Đức) của mình.
Tác phẩm về sau“ tác giả đề cập ở đây là Bản thảo VNQDĐCT, nói khác đi, là bản cương lĩnh của Việt Nam Quốc Dân Đảng do họ Phan soạn tại Trung-hoa trong khoảng từ tháng 7.1924 tới tháng 5.1925 và đã giao cho Hồ Tùng Mậu mang về nước. J. Unselt không tìm đâu ra được nguyên bản bản thảo, mà chỉ tham khảo nó qua bản dịch Pháp ngữ của phòng nhì Pháp. Luận án của J. Unselt đã dịch lại gần như toàn bộ bản văn Pháp ngữ. Chúng tôi chuyển dịch ra Việt ngữ những gì Unselt đã trích. Đầu thập niên 90 thế kỉ trước, linh mục Trương Bá Cần có xin tôi một bản chụp luận văn của Unselt, bảo là để cho người bạn của ông là Chương Thâu. Không hiểu ông Chương Thâu tới nay có tìm được nguyên bản tài liệu không, và công việc nghiên cứu Phan Bội Châu của ông từ đó tới nay tiến triển như thế nào, tôi không rõ, vì không biết tình hình nghiên cứu tại Việt Nam hiện nay ra sao.
Phần chữ nghiêng là các đoạn do chúng tôi dịch lại từ J. Unselt (từ trang 193 – 225). Qua ba đợt dịch, chắc chắn sẽ không tránh khỏi thất thoát trong tiểu tiết, nhưng hi vọng vẫn lột tả và phản ánh được những nội dung chính của bản văn.

VNQDĐCT gồm 4 phần

A.    Nâng cao Dân sinh (tới mức phổ quát)
B.     Huấn luyện Dân trí, nghĩa là nâng cao trình độ học vấn (tới mức phổ quát)
C.     Bảo đảm cho Í muốn trung thực của người dân được phát biểu và từ đó đưa Dân quyền lên một nền tảng bền vững hơn
D.    Chương trình hành động của VNQDĐ với việc thực hiện bốn thời kì lịch sử

„Quan tâm chính của chúng ta là phải làm sao dành lại được quyền làm người. Nhưng trước khi dành lại quyền này, trước hết ta phải bằng mọi cách quan tâm tới Dân quyền, bởi vì Dân quyền là căn bản, là nền tảng của quyền làm người. Mất Dân quyền thì dĩ nhiên cũng chẳng còn quyền làm người. Vì thế, chúng ta coi Dân là nền tảng xuất phát mọi nguyên tắc, nói rõ hơn, mọi hành động của ta tuyệt đối đều đặt trên căn bản quyền lợi của Dân và vì Dân (...). Dân là nền tảng của Nước. Nếu nền vững, thì Nước có hoà bình (...). Dân mới là chính, còn vua chẳng có nghĩa gì (…). Vua phải coi Dân như trời (…). Quyền Nước hoàn toàn nằm trong tay Dân.
Vì thế, không có Dân thì không thể có Nước, và mặt khác, khi Dân không có quyền, thì cũng sẽ không có Công dân đúng nghĩa.
Bây giờ, giả sử dăm ba triệu con người quây quần với nhau – như một đám nô lệ hay như đàn trâu ngựa – dưới chính quyền của một nước hùng mạnh, thì ta cũng không thể gọi đám người kia là Dân, mặc dù con số đông đảo của chúng. Hơn nữa, một nước được lập nên bởi một dân tộc như thế thì cũng không được gọi là một Quốc gia (...).
Do đó, nhiệm vụ chính của Đảng chúng ta là phải làm sao để quyền của Dân trở nên quyết định và hữu hiệu. Để đạt mục tiêu này, Đảng cần có một chính sách cho phép người dân thủ đắc và hành xử quyền của mình (...)“

Chính sách đó được Đảng cụ thể hoá bằng ba nhiệm vụ A, B, C nêu trên. Theo họ Phan, đây là “ba điều kiện sinh tồn”. Vì mất ba điều kiện sống nền tảng đó, nên người Việt đã mất đi quyền Dân của họ. Sau phần dẫn nhập ngắn trên, cương lĩnh đi vào chi tiết.

A.     Nâng cao Dân sinh (tới mức phổ quát)

“Dân ta làm ăn khổ cực. Công nghệ và các nghề nghiệp ở nước ta chưa phát triển. Thổ địa chưa được khai khẩn đầy đủ. Nguồn lợi thiên nhiên chưa được khai dụng trọn vẹn. Mức hiểu biết thực dụng của dân còn thấp. Đường sá giao thông thiếu thốn. Do đó chín phần mười người dân phải đói rét, sống trong tình trạng tay làm hàm nhai, luôn luôn bị dằn vặt với âu lo không biết lấy gì ăn, lấy gì mặc.
Do đó, thực dân Pháp và tay sai giàu có, tham tiền, bất lương, cứ mặc sức lợi dụng sự đói khổ, ngu dốt của đám dân bất hạnh mà bóc lột. Một tay cầm đồng bạc, tay kia con roi, chúng quật vào lưng người dân như sai khiến đàn súc vật, để bắt dân lao dịch vô cùng nặng nhọc. Những đối xử tàn tệ đó luôn đẩy họ vào vòng khiếp sợ và ngu đần, ngay chính sự sống của chính mình còn chưa chắc, huống chi nói đến chuyện đòi quyền. Đó là lí do chính khiến Dân quyền của đồng bào ta mất. Vì vậy, nguyên tắc hành động đầu tiên và trước tiên của chúng ta là phải làm sao cho dân được ấm no, hạnh phúc (...)
Hiền triết Á-đông xưa dạy, người ta cần phải làm sao cho người dân trong nước được hạnh phúc. Nguyên tắc bôn-sê-vích của nước Nga-la-tư mới lại nói, ai không làm thì không có quyền ăn. Theo đó, thì người ta ai cũng muốn cho mọi người được hạnh phúc và muốn cho không ai không thể có việc làm. Khi mỗi người đều làm việc, thì hẳn dân chúng tất cả sẽ hạnh phúc, bởi vì càng có nhiều người làm, con số người bất hạnh càng giảm.
Do đó, chính sách chính của Đảng chúng ta là bảo đảm cho dân ấm no hạnh phúc. Ta muốn rằng, ai lao động thì được hưởng hạnh phúc, và ai không lao động thì không được hưởng, đó là cái công bằng cụ thể nhất”.

Ai không làm thì không có quyền ăn”, hiểu theo tác giả, có nghĩa là người có khả năng lao động không được sống bám trên công sức lao động của kẻ khác. Và chữ “người làm việc /lao động / lao công” được tác giả hiểu là tất cả những ai làm việc bằng đầu óc hoặc chân tay. Và để tiến tới nguyên tắc công bằng lao động đó, VNQDĐ đề ra:

“1. Bằng mọi cách bảo vệ người lao công; trợ cấp và huấn nghệ cho họ. Từ “Lao công” được hiểu là tất cả những ai lao động bằng trí óc và chân tay – “ngoài hai loại ấy ra chẳng ai còn được xem là lao công nữa hết”.
2. “Cải cách phương thức sản xuất nông nghiệp, để người lao công đỡ tổn sức mà thu nhập lại tăng”.
3. Khai thác kho tàng lâm sản để lấy gỗ xây dựng và xuất cảng, “đó là một nguồn lợi to lớn cho quốc gia”.
4. Cải tiến việc sản xuất tơ sợi và phương pháp dệt, “để nước ta không phải lệ thuộc nước ngoài về tơ sợi nữa”.
5. “Kết hợp tư bản quốc gia và ngoại quốc” để có tiền khai thác mỏ, “đó cũng là một nguồn lợi to lớn của quốc gia”.
6. “Hỗ trợ nền công kĩ nghệ. Đẩy mạnh khả năng chỗ đã mạnh, phát triển chỗ đang yếu”.
7. “Kiện toàn ngành đánh cá biển, làm muối, hàng hải và đánh cá sông ở vùng sông ngòi ven biển”.
8. “Sử dụng các máy móc phương tiện hiện đại của ngoại quốc cho công tác trị thuỷ”, để giữ miền Bắc và miền Trung khỏi thiên tai lụt lội.
9. “Thiết lập nhiều nhà máy và công xưởng khắp nơi, để dân nghèo có kế sinh nhai”.
10. Thiết lập các “xưởng thủ công”, để những người ăn xin có chỗ làm việc độ nhật.
11. Thiết lập nhiều “nhà lao động”, “để áp chế và đưa những kẻ lang thang không muốn lao động vào làm việc. Như thế, quốc gia sẽ trừ được đám ăn bám”.
12. Xây dựng các “viện chữa trị”, “để tập trung chăm sóc cũng như huấn nghệ cho người già yếu, hầu (sau khi lành bệnh) họ không trở thành người vô ích cho xã hội”.
13. “Trợ cấp và thưởng những người mở xí nghiệp và lập thôn làng mới để khai khẩn đất hoang gần núi và ven biển. Công tác này nhà nước phải hỗ trợ và cùng đóng góp”.
14. “Lập quỹ cho vay, để người nghèo có thể vay nhẹ lãi, tránh cho họ khỏi bị bóc lột bởi đám cho vay nặng lãi”.
15. “Mở các xưởng làm việc, để nông dân vào những dịp rỗi việc đồng áng có thể làm việc nâng cao thu nhập”.
16. “Mở quỹ tiết kiệm ở các bưu điện, để dân kí thác tiền để dành”.

Đó là những biện pháp cụ thể cho chương trình xây dựng mặt kinh tế và xã hội. Bên cạnh, để hỗ trợ cho chương trình này, phải triệt để tẩy trừ sáu căn bệnh sau đây:

“1. Ai biếng nhác, không muốn làm việc và không chịu vào các xưởng làm việc của chính phủ, thì phải đi lao động bắt buộc, nếu cần.
2. Cũng bị bắt đi lao động, những ai thích lang thang ăn mày hơn là vào làm việc trong các công xưởng của nhà nước.
3. Cấm rượu chè, cờ bạc, hút sách. Ai cố tình vi phạm, sẽ bị nghiêm trị.
4. Phải cách li khỏi xã hội những ai bị bệnh nan i và trở thành vô ích cho xã hội. Những ai bị tật bệnh do công việc phục vụ dân nước gây ra thì không phải tách khỏi xã hội.
(Theo hiểu biết thời đó, có lẽ họ Phan nghĩ đây là cách hay nhất để cách li các mầm bệnh lây lan nan trị khỏi tập thể dân chúng!)
5. Công hữu hoá tư bản của các nhà tư sản nào chủ trương hưởng lợi riêng mà không chịu đầu tư cho phúc lợi công.
6. Những thói xa hoa cũ không ích lợi cho phúc lợi chung, phải cấm chỉ”.


B.     Huấn luyện Dân trí, nghĩa là nâng cao trình độ học vấn (tới mức phổ quát)

“Dân trí còn tăm tối, chưa được khai sáng đầy đủ. Dân ta sống dưới uy quyền quân chủ chuyên chế, tới giờ chẳng có được tư tưởng nào khác, ngoài việc rượu chè, ăn uống, chơi bời. Ngoài công việc lao dịch ra, chẳng có gì là thương mại lẫn nghề nghiệp.
Đã quen nhắm mắt tuân phục sự chuyên quyền của vua, nên chi cũng cong lưng chấp nhận đàn áp của quan nha. Các dụ, lệnh của vua ban ra được kính cẩn tuân phục, coi như chúng là của trời ban xuống. Nên chi những bạo chúa và đám quan nha dối trá từ xưa tới nay cứ ra công dìm dân trong ngu muội, tìm cách ngăn cản mọi phát triển và khả năng trí tuệ của người dân.
Lối khoa cử từ chương khốn nạn và luật lệ cứng nhắc đã trói chân trói tay và kìm hãm bao nhiêu đầu óc tráng niên ưu tú.
Giờ phía người Pháp lại khai dụng triệt để hơn các lối hành xử và biện pháp chuyên quyền, dã man đó để hoàn toàn làm thui chột dân trí ta.
Hiện nay, dân ta đã băng hoại đến độ không còn chút í thức nào nữa về nhân phẩm: Pháp ban cho chút gì, thì mọi người ham mồi kính cẩn coi chúng như cha mình.
Chúng ép dân để hút máu, chúng cưỡng chiếm gia tài tiên tổ mà không ai lên tiếng. Không dám mở miệng đã đành, mà còn không dám tỏ bày nỗi tức giận mình.
Một dân tộc thoái hoá như thế thì ai thương tình trao quyền cho?
Mặt khác, dân ta không biết là mình có quyền, nên chẳng đòi hỏi chi. Ngoài ra, vì không í thức được danh dự do việc sở hữu các quyền đó tạo ra, nên chi người người cam tâm hài lòng với việc vô quyền, với những nhục nhã, chửi bới.
Quyền Dân mất là vì thế. Do đó, nhiệm vụ của VNQDĐ là phải làm sao để nâng cao Dân trí».

Nhưng với phương tiện nào ?

“Dân ta tới nay chưa có tinh thần đoàn kết trong lao động và chưa đủ kiến thức kinh tế. Đó là hai thực tại gây ra đói nghèo và bất hạnh. Tại sao ? Bởi vì chính phủ Pháp đã làm mọi khả năng tự nhiên của họ cùn đi và tê liệt hoàn toàn.
Vì mục tiêu của Đảng chúng ta là bảo đảm ấm no hạnh phúc cho dân, thì Đảng cũng lại càng có trách nhiệm trước hết phải nâng cao trình độ trí tuệ cho dân.
Vì thế, ba vấn nạn sau cần phải giải quyết:
1.      Trước hết, phải cải tiến nền giáo dục bình dân.
2.      Phải có biện pháp để đưa nền giáo dục đó lên mức cao nhất.
3.      Phải làm sao để đưa nền giáo dục bình dân hay căn bản đó tới mọi tầng lớp dân chúng ».

Muốn thế, phải thi hành cho được 14 điều kiện sau:

«1. Trong mỗi tỉnh phải mở trường và mở khoá đào tạo thầy cô giáo cho các trường bình dân.
2. Mở trường bình dân khắp nước. Ban hành quy chế giáo dục bắt buộc, để nền bình dân giáo dục tới được mọi người dân. Học các lớp bình dân, không phải đóng học phí, nhưng phải trả tiền sách vở và chi phí các học dụng khác.
3. Sách giáo khoa phải được soạn kĩ. Để làm việc này, bắt buộc phải lập một ban soạn giáo khoa và giao cho những người giỏi giang và đức độ điều khiển.
4. Mở các trường dạy chữ và dạy nghề hoàn toàn miễn phí cho dân nghèo.
5. Phải có giáo viên tốt cho các trường lớp. Vì thế, ở mỗi tỉnh phải có một trung tâm sư phạm và một trường bổ túc văn hoá. Việc điều hành các trường đó giao cho người có khả năng trên mọi phương diện. Những người này có nhiệm vụ tuyển chọn và đào tạo giáo viên tương lai. Với cách thức đó mới bảo đảm có được giáo chức đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ.
6. Những người soạn tuồng, kịch hợp nhau lại thành Hội để đổi mới nền kịch nghệ. Các mẫu mực anh hùng như Trưng Trắc, Ngô Quyền, Lê Lợi, các tư tưởng mới cũng như các tấm gương lớn của văn minh phương tây phải được trình bày ra để dạy dân chúng.
7. Phải mở trường thể dục ở các tỉnh, xã và giao cho người khả năng trông coi, để họ có thể dạy thể thao, thể dục và vệ sinh cho dân.
Song song cũng phải xây các thao trường để dân có nơi luyện tập, vì thể xác không tráng kiện thì tinh thần thiếu minh mẫn.
Lại nữa, tinh thần của dân ta đã bị Pháp áp chế đến mức băng hoại rồi, nên ta phải gấp rút đưa ra biện pháp giải cứu kịp thời.
8. Phải mở trường kĩ thuật, cũng như các trường nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, khai mỏ, nuôi tằm, huấn nghệ. Tóm lại, mỗi ngành phải có trường riêng để dạy và hoàn chỉnh nghiệp vụ. Ngoài ra, phải khuyến khích người theo học thật đông hầu mai sau có nhiều kĩ nghệ gia, thương gia, công nhân, nông gia giỏi.
9. Phải khuyến khích người ra nước ngoài du học. Để tăng phần khuyến khích giới trẻ du học, nhà nước phải bảo đảm công ăn việc làm cho những người trở về. Dân ta vì bị thực dân luôn nhốt trong lồng, nên mức độ trí thức thua kém rất nhiều nước khác.
10. Phải đặc biệt mở trường xã hội học, để dạy dân ta các khoa học xã hội, và trao các trường đó cho các nhà xã hội học nước ngoài đảm trách. Có vậy dân ta mới có thể tạo dựng được những định chế phúc lợi xã hội, chứ như ngày nay (1924) thì chẳng ai có chút í thức gì về khoa học này.
11. Khuyến khích và trợ cấp cho những ai mở trường tư hoặc thư viện.
12. Xây thư viện và nhà triển lãm ở một số tỉnh lớn, để trưng bày đồ kỉ niệm của các nhân vật nổi tiếng trong nước - cũng như trưng bày sản phẩm nghệ thuật của văn minh mới hiện đại. Mọi người dân có quyền vào xem.
13. Nữ cũng được học hành như nam. Nhờ thế, vợ có thể giúp chồng đắc lực trong mọi chuyện.
14. Những truyền thống nẩy sinh từ mê tín và thiên kiến phải triệt để loại trừ. Những chùa chiền dựng lên để thờ quỷ thần trác táng phải dẹp đi và phải canh tân lại đạo Phật.


C.     Bảo đảm cho Í muốn trung thực của người dân được phát biểu (nghĩa là phải có Tự do ngôn luận- Người dịch) và từ đó đưa Dân quyền lên một nền tảng bền vững hơn.

“ Từ xưa tới nay, mọi quyền hành trong nước ta đều trong tay vua, và vua hành xử hoàn toàn theo í mình.
Từ khi có chính quyền bảo hộ, mọi quyền chính trị và lập pháp lại chuyển sang tay người Pháp. Chúng muốn làm gì mặc í.
Vì thế, nếu có ai dân mình cảm thấy là nạn nhân của bất công, muốn kêu gào, thì cũng không biết kêu vào đâu. Đành nạp mình cho số phận, cúi đầu chấp nhận để cho chính quyền bảo hộ mặc tình quyết định về sở thích và quyền lợi của mình.
Thử hỏi trong hoàn cầu này có dân nào như dân ta bị chà đạp và bóp nghẹt tiếng nói như thế?
Khi Dân í đã bị triệt tiêu thì vua và người Pháp muốn làm gì cũng được.
Thực ra, vua vẫn giữ quyền vua trong các phạm vi thuộc uy quyền của mình. Pháp nới rộng quyền hạn của chúng ra mọi lãnh vực thuộc quyền của chúng.
Chỉ có người dân là vắt hết máu mình ra và hi sinh ngay cả tính mạng mình để thoả mãn một lúc hai ông chủ. Họ chẳng từ nan việc gì để làm thoả mãn lòng tham của cả hai. Dù vậy, họ cũng chẳng được ban cho chút quyền nào.
Trước hoàn cảnh đó, không thể nào tái lập được Dân quyền, là vì như đã nói, mọi quyền dân đã bị tước đoạt hết rồi.
Vì thế, nhiệm vụ của VNQDĐ là làm sao để Dân í được tự do phát biểu đầy đủ.  Như trên đã nói, một khi ấm no hạnh phúc đã có, trình độ tri thức đã cao, Dân í được tự do phát biểu trên một nền tảng bảo đảm vững chắc, thì lúc đó Dân quyền sẽ trở nên quyết định. Và lúc đó chúng ta chẳng còn gì phải âu lo nữa. Đó là tóm tắt tất cả tiêu đích của VNQDĐ.
Nếu như có hạnh phúc, có Dân trí mà Dân í vẫn bị tê liệt, vẫn chưa có cơ hội tự do phát biểu, thì chương trình của chúng ta lúc đó vẫn chưa hoàn thành. Vì sao? Là vì dân là kẻ thấu cảm hơn ai hết nỗi đau đớn của mình, và họ mới là kẻ có thể giải thích cho người khác hiểu rõ cơn đau đó.
Khi ta chăm sóc bệnh nhân, bệnh nhân phải cho ta biết họ đau như thế nào, thì ta mới có thể chữa lành họ. Cũng vậy, học trò phải hỏi, phải chất vấn thầy những điểm chưa hiểu, thì thầy mới biết mà trả lời.
Vì vậy, chính sách của Đảng chúng ta là phải đưa Dân í lên trên hết mọi thứ.

1. Phải được tự do phát biểu bằng lời hoặc bằng chữ viết í kiến và suy nghĩ của mình (trừ những phát biểu có hại cho thuần phong mĩ tục).
2. Chính phủ phải thường xuyên cử nhân viên về tỉnh xã thu lượm các bài thi ca của dân để biết rõ suy nghĩ của họ, nghĩa là biết họ muốn gì, ghét gì. Những bài ca nào có hại cho thuần phong mĩ tục thì cấm. Đón nhận những bài thi ca phê bình chỉ trích chính sách nhà nước và tác phong của các nhân viên chính quyền để rút kinh nghiệm (làm lợi cho dân).
3. Tất cả công chức (mọi cấp cao) có bổn phận phải tiếp dân ngoài giờ làm việc, khi dân cần.
4. Khi dân thưa kiện điều gì, mọi công chức các cấp phải tỏ ra vui vẻ, ôn hoà, để dân an tâm biện bạch hết lẽ. Tuyệt đối không được dùng (bất cứ) bạo lực nào để hù doạ dân.
5. Phải dựng ở các tỉnh chính và nơi các xã quan trọng những bục thuyết trình, để dân ai muốn trình bày gì tuỳ í, trừ các đề tài phương hại tới luân lí đạo đức hoặc chỉ trích các nguyên tắc quốc gia cơ bản của Đảng chúng ta.
6. Huỷ bỏ toàn bộ các lệnh cấm của chính quyền vua quan đã ra trước đó.
7. Cũng xoá bỏ tất cả các khác biệt giai cấp xã hội do chế độ vua quan cũ đã tạo ra.

Và sau đây PBC đưa ra những phương thức hợp pháp và cụ thể để đưa quyền và lợi của dân lên một nền tảng vững chắc.

Ngày nào Đảng tiến tới nắm được chính quyền, ngày đó dân ta giành lại được Dân quyền. Nhưng lúc đó chúng ta có thể còn phải đối đầu với một chướng ngại duy nhất:
Trong giai đoạn ban đầu, lúc mà kinh tế chưa cao, học vấn chưa lan rộng tới mọi tầng lớp dân, có thể sẽ có một công chức cao cấp bất lương hay một tên nhà giàu có nào đó lợi dụng tình thế hoặc cơ hội để thoán đoạt quyền dân, thì toàn bộ kế hoạch của Đảng chúng ta kể như tiêu. Đó là thời điểm gay cấn làm chúng ta lo sợ nhất và đòi ta phải hết sức để í. 
Vì thế, Đảng phải tìm mọi cách để mau mắn đưa Dân quyền lên một nền tảng chắc chắn. Như vậy, phải quan tâm tới 4 yếu tố liên quan tới Dân quyền sau:
-   Quyền lập pháp trực tiếp
-   Quyền hành pháp và tư pháp gián tiếp
-   Quyền kiểm soát trực tiếp
-   Quyền lập hiến trực tiếp

(1) Quyền lập pháp trực tiếp.
Quyền lập pháp thuộc toàn dân. Để thực thi quyền này, dân họp lại trong một hội nghị gọi là „Viện lập pháp“. Mọi quyết định của Viện được biểu quyết theo đa số. Thành viên của Viện do dân bầu trong một cuộc phổ thông đầu phiếu. Chỉ sau khi đã bầu đầy đủ dân biểu, Viện mới được chính thức hình thành. Có hai loại dân biểu:

(a)   Đại biểu dân: được bầu lên từ các tỉnh.
Khởi đầu, dân các xã, làng, hương bầu bầu ra đại biểu mình. Mỗi xã lớn bầu 12 đại biểu, xã nhỏ 8. Gọi là Hội đồng xã.
Hội đồng xã của một Tổng họp lại bầu ra Hội đồng tổng, Tổng lớn 8, Tổng nhỏ 6 đại biểu. Hội đồng tổng họp bầu ra Hội đồng huyện, Huyện lớn 6, Huyện nhỏ 4 đại biểu.
Hội đồng huyện họp bầu ra Hội đồng tỉnh, Tỉnh lớn 4, Tỉnh nhỏ 2 đại biểu.
Tất cả Hội đồng tỉnh họp lại thành Viện dân biểu hay Viện lập pháp.
Mọi cuộc bầu cử phải kín, phiếu bầu phải có chữ kí của cử tri. Cử tri phải hội đủ các điều kiện:
1) tròn 20 tuổi
2) có học (cấp bình dân tiểu học trở lên), có nghề nghiệp và không can án
3) đã sống tại đơn vị bầu cử tối thiểu 7 năm.

Ứng cử viên Viện dân biểu phải:
1) đạo đức, có học, có tiếng tăm hơn người
2) đã bỏ tiền riêng đóng góp vào một công trình phúc lợi chung nào đó
3) đã có một hành động anh hùng hoặc một hi sinh nào đó cho nhân quần
4) tròn 25 tuổi, hiện diện nơi đơn vị bầu tối thiểu 10 năm, không can án.

(b) Đại biểu ngành nghề, do các thương nhân, các người hành nghề tiểu công nghệ (kể cả các nhà kĩ nghệ) và nông dân bầu ra:
Nông dân xã, tổng, huyện họp nhau bầu lên đại biểu. Tiến trình và cách thức cũng như lối bầu đại biểu dân. Những đại biểu này được gọi là „Đại biểu nông dân“. Các ngành nghề khác cũng được bầu như thế („Đại biểu thương nhân“, „Đại biểu tiểu thủ công nghệ“)
Nông dân nước ta chiếm đa số. Đại biểu của họ do đó sẽ nhiều hơn các ngành nghề khác. Họ luôn được bầu theo Tổng, cách bầu theo lối như đã nói trên.
Số đại biểu mỗi tỉnh tỉ lệ với số dân trong tỉnh.
Còn những ngành nghề khác, có thể số đại biểu của họ cao lắm là 2 hay 3 người trong một tỉnh. Có những nghề có trong tỉnh này mà tỉnh khác không có, trường hợp này, số đại biểu sẽ được tính theo nghề chứ không theo tỉnh. Kết quả bầu cử sẽ do một uỷ ban gồm các đảng viên VNQDĐ kiểm tra và duyệt xét. Ai hội đủ mọi điều kiện ứng cử, được công nhận tư cách đại biểu.
Cử tri phải hội đủ điều kiện:
1)      tròn 25 tuồi
2)      đã hành nghề (thủ công, buôn bán) tối thiểu 5 năm
3)      biết viết đủ để kí tên, không can án

Ứng viên đại biểu ngành nghề phải hội đủ:
1)      tối thiểu 25 tuổi
2)      phải có bằng chứng cụ thể xác minh nghề nghiệp (thủ công, buôn bán) của mình
3)      nếu có thể, phải chứng tỏ được đã hết lòng giúp đỡ đồng nghiệp mình
4)      không can án và đã hành nghề (theo khai báo) liên tục 10 năm

Cả hai loại đại biểu trên sẽ bị loại khỏi Viện dân biểu/lập pháp, nếu vi phạm một trong những điều sau:
1)      trong thời thuộc địa đã có bằng chứng tuân lệnh vua quan áp bức thường dân
2)      đã có bằng chứng rõ ràng chiếm công vi tư
3)      có bằng chứng rõ ràng đã giúp Pháp làm hại dân
4)      làm công chức lãnh lương nhà nước
(Sau khi bầu xong , VNQDĐ sẽ họp bầu ra những Hội đồng để lập ra Uỷ ban kiểm tra, hầu kiểm tra tính cách hợp pháp của từng đại biểu. Nếu có trường hợp vi phạm, sẽ tổ chức bầu lại).

(2) Quyền tư pháp và hành pháp gián tiếp của dân
Theo nguyên tắc VNQDĐ, mọi công chức ngành hành pháp hoặc tư pháp đều là đầy tớ của dân. Do đó, những người cầm đầu hai ngành này sẽ do chính dân bầu lên. Qua việc bầu này, người dân thực thi một cách gián tiếp hai ngành này.

(3) Quyền kiểm soát trực tiếp
Vì Dân biểu bầu ra các vị lãnh đạo hành pháp và tư pháp, nên họ có quyền kiểm soát hành vi, có quyền chất vấn và có quyền truất bỏ những người đó, nếu cần.
Nếu vị nào phạm pháp hoặc tỏ ra thiếu khả năng, Viện dân biểu sẽ họp yêu cầu sửa đổi hoặc cảnh cáo. Trường hợp không chịu sửa đổi, sẽ bị Viện bỏ phiếu truất phế.

(4) Quyền lập hiến trực tiếp
Sau khi thành lập, Viện lập pháp sẽ họp bầu ra một Uỷ ban đặc biệt gồm những người trí thức nhất vào giao cho họ soạn dự thảo Hiến pháp. Có xong dự thảo, Viện dân biểu sẽ họp khoáng đại thảo luận và biểu quyết Hiến pháp. Trong phiên khoáng đại này, có sự tham dự của các cơ quan quốc gia khác. VNQDĐ cũng cử đại biểu các tỉnh về dự. Dự thảo sẽ được thảo luận kĩ từng điều khoản một, sau đó biểu quyết. Xong đưa ra áp dụng ngay. Như vậy, một cách gián tiếp, người dân có quyền tham dự vào tiến trình soạn thảo Hiến pháp.


D.    Chương trình hành động của VNQDĐ với bốn giai đoạn


-          Giai đoạn 1: Thanh toán các chướng ngại phản cách mạng trong nước
-          Giai đoạn 2: Thành lập „Tân Việt Nam“
-          Giai đoạn 3: Thi hành các nguyên tắc cộng sản
-          Giai đoạn 4: Hoàn thành „VNQDĐ chương trình“

1. Thanh toán các chướng ngại phản cách mạng trong nước

Nếu như mọi chuyện dự trù được thực hiện đầy đủ, thì tất cả dân ta đều có một hệ thống kinh tế như nhau, đều có học vấn như nhau, và tất cả đều được hưởng hạnh phúc. Như thế, lời khuyên của người xưa „phải làm sao cho mọi người hạnh phúc“ và nguyên tắc của nước Nga xô-viết „ai không làm không ăn“ chẳng phải là những câu sáo rỗng và chúng có í nghĩa tích cực ở nước ta. Như thế là ta đã cụ thể hoá những lời thề hứa hằng mong đợi của ta. Song ngôi sao hi vọng của ta vẫn còn bị mây mù che phủ, chưa loé ra được, đó là vì ta còn có một trở lực lớn che đường và cản bước tiến. Trở lực đó chẳng ai ngoài chính quyền bảo hộ, một chính quyền đã gây bao nhiêu bất công cho dân tộc.
Đối với chúng ta, nhân dân Pháp, công nhân, binh lính, trí thức của họ cũng như đảng viên Đảng xã hội và Đảng vô chánh phủ Pháp ta coi là bạn, là chính người anh em. Chúng ta coi họ là bạn, muốn chia sẻ cơm cháo với họ. Vì sao? Là vì họ cũng là giống người với bản tính tự nhiên như ta, cũng có cha Trời mẹ Đất như ta.
Kẻ thù duy nhất không đội trời chung của ta là chính quyền bảo hộ. Chính quyền này đã đoạ đày và cướp đi mọi quyền của dân ta, chúng trắng trợn thu tóm mọi quyền hành trong tay, không để cho ta làm một cái gì.
Rõ ràng, kẻ thù ta tuy chỉ là một dúm ít người Pháp trong chính quyền bảo hộ, nhưng chúng chà đạp cả một dân tộc Việt đông đảo và là chướng ngại lớn nhất cho Đảng ta. Đau biết chừng nào mà kể! Vì thế, bao lâu chính quyền đó còn tồn tại, giống nòi ta còn bị đe doạ diệt vong, và như thế chương trình của Đảng cũng tiêu vong.
Nếu các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa của ta bị phá vỡ, thì đó không những là một tai hoạ cho đất nước, mà còn là bất hạnh cho cả nhân loại.
Bởi vì dân ta là một phần của cộng đồng nhân loại, nguyên lí xã hội chủ nghĩa của Đảng ta cũng có liên hệ với nguyên lí loài người, nên nước nào áp bức dân ta, nước nào đe doạ các nguyên tắc của Đảng ta, thì chính nước đó tất nhiên là kẻ thù của nhân loại.
Làm sao các dân tộc trên thế giới có được hoà bình, khi kẻ thù ấy còn hiện diện. Do đó, mục tiêu chính của Đảng là phá đổ tất cả những chướng ngại trong nước. Để thực thi mục tiêu này, Đảng đề ra chương trình hành động (bốn bước) như sau:

1) Trong nước, ta giữ thái độ hoà hoãn. Bên ngoài, ta phải tiến bước theo các quốc gia khác.
2) Khi các biện pháp văn minh đó không cho phép ta tiến tới mục tiêu, thì bó buộc tất cả chúng ta phải cần đến vũ lực.
3) Đoàn kết cả nước lại dưới một uy quyền. Phải làm sao cho cả nước trở thành một khối, trở thành một Đảng duy nhất và phải kêu gọi những người Pháp đồng lòng chia sẻ những mục tiên đấu tranh của ta.
4) Liên kết với các quốc gia và dân tộc khác. Chúng ta kêu gọi những đảng viên Đảng xã hội nước ngoài hãy giúp sức và cùng đấu tranh với ta. Chúng ta kết chặt tình thân với tất cà mọi dân tộc trong cảnh ngộ như ta, nghĩa là cùng bị áp bức bởi ách bạo quyền của một nước mạnh và kêu gọi họ cùng đứng lên chống lại kẻ áp bức.

2. Giai đoạn II: Xây dựng một nước „Việt Nam mới“

PBC đưa ra chương trình 6 điểm dưới đây để thực hiện. Ngoài ra, ông cũng cho biết, một số điểm khác kém quan trọng hơn đã được ông trình bày trong tập Tân Việt Nam.

1) Ban bố Hiến pháp
2) Thực thi ngay Hiến pháp đã ban hành
3) Dẹp bỏ hệ thống quan nha
4) Tổ chức lại một hệ thống thuế thân và thuế đất phù hợp
5) Xây dựng một chính sách kinh tế quốc gia thật hùng mạnh
6) Cải tiến và mở rộng thật nhanh hệ thống giáo dục bình dân.

3. Giai đoạn III: Thực hiện các nguyên tắc cộng sản

Sau khi một Việt Nam mới đã được kiến tạo, ta lập tức ban hành biện pháp cấm cá nhân mua bán, chuyển nhượng đất ruộng và đất tư. Các chủ đất tư chỉ được phép bán đất lại cho nhà nước. Đất ruộng do nhà nước mua lại và đất công thiên nhiên (được hiểu là đất ruộng nơi miệt núi, rừng, các vùng hay bị lũ lụt cũng như các vùng ven sông ven biển) đương nhiên trở thành tài sản quốc gia.
Song song với việc tái tổ chức hệ thống điền địa trên, chính quyền ra quyết định ngay để ấn định luôn một lần giá cả cho các loại đất tư.
Trước hết, tư nhân phải kê rõ số lượng mẫu (3600-4000 m2) sào (360-400 m2) mình có và muốn bán với giá bao nhiêu, để nhà nước theo đó mà giải quyết về sau.
Nếu sau này phát hiện sự man khai, số đất man khai sẽ bị tịch thu trở thành tài sản quốc gia.
Trong một số trường hợp, nhà nước có quyền mua lại đất với giá thấp hơn giá chủ nhân đưa ra.

PBC định nghĩa một cách tổng quát các „nguyên tắc cộng sản“ của mình như sau:

1) Chia đều mọi sở hữu đất đai cho dân theo ba tiêu chuẩn cân bằng pháp lí
2) Mọi sản xuất của Việt Nam đều chỉ để phục vụ dân
3) Bảo đảm hạnh phúc cho người lao động

(1) Chia đều mọi sở hữu đất đai theo ba loại cân bằng pháp lí:

a) đất thuộc sở hữu tự nhiên của nhà nước
b) đất mua lại của dân song đã trở thành tài sản bất khả chuyển nhượng của nhà nước
c) đất chính phủ và tư nhân đã thoả thuận giá cả, nhưng sau đó theo thời gian giá trị lại tăng cao. Đất này thuộc loại có thể chuyển nhượng (nghĩa là nhà nước có thể bán lại cho dân).
Cả ba loại trên đều được chia đều cho dân để mọi người có thể thu lợi từ sản phẩm đất đai và đất đai không rơi vào sở hữu của một tư nhân nào.

(2) Mọi sản xuất đều chỉ nhằm phục vụ dân.
Sản phẩm quốc gia là do tự nhiên hoặc do bàn tay của tập thể con người tạo ra.  Đó là mỏ vàng, mỏ bạc, rừng, đường sắt, sông rạch… tất cả những thứ đó đều là sở hữu của quốc gia. Quốc gia kinh doanh những nguồn lợi này để phục vụ công ích. Không ai được độc quyền những thứ đó.

(3) Bảo đảm hạnh phúc cho người lao động:
Khi hai nguyên tắc (1) và (2) được thực hiện, thì đất nước không còn hiểm hoạ rơi vào chủ nghĩa tư bản nữa. Lúc đó, tất cả mục tiêu còn lại là làm sao để bảo đảm hạnh phúc cho người lao động. Muốn thế, phải:

a) ấn định giờ làm việc
b) đồng lương phải đi đôi với sản phẩm
c) lương phải ở mức cao cho mọi người
d) phải nỗ lực làm cho ngành lao động tập thể phát triển mạnh được chừng nào có thể
e) phải bằng mọi cách tạo cho mọi người dân đều có cùng mức sống kinh tế ngang nhau.

4. Giai đoạn IV: Hoàn thành chương trình của VNQDĐ.

Trong giai đoạn này, chủ nghĩa đế quốc và tư bản biến mất hẳn. Chúng ta chỉ còn lại nhiệm vụ làm sao đưa lí tưởng của Đảng ra ánh sáng để nó thăng tiến toàn bộ. Phải làm sao để toàn thể đất nước trở nên như một người duy nhất, làm sao cho mọi dân tộc trên hoàn cầu đoàn kết lại như một gia đình. Ngày đó, tay trong tay, dân Việt sẽ cùng các dân tộc khác nắm tay chung chân trên một địa cầu. Đó là lúc công trình của VNQDĐ nở hoa và đạt tới mục tiêu.

(Kì tới: Nhận định về tư tưởng duy „Dân“ trong VNQDĐCT)